Chương trình diễn ra từ ngày 16-18/10/2019 và giao lưu với các Hội kế toán thuế quốc tế… Nằm trong phái đoàn gồm 40 đại biểu đại diện cho Hội tư vấn thuế Việt Nam (VTCA), Golden Span đã cùng tham gia hội nghị nhằm trao đổi, học tập kinh nghiệm các vấn đề liên quan đến chính sách thuế, quản lý thuế và hoạt động đại lý thuế của thành viên Hiệp hội AOTCA.
Bà Bùi Kim Kiều & Golden Span: Nối nhịp thành công cho doanh nghiệp Nhật Bản đến Việt Nam
Để thực hiện sứ mệnh kết nối giữa các doanh nghiệp, giải đáp các vấn đề về ngôn ngữ, thông tin liên quan đến chính sách thuế, kế toán… nhằm tối ưu hóa hoạt động kinh doanh cho khách hàng, Công ty TNHH thương mại dịch vụ Nhịp Cầu Vàng – Golden Span, do bà Bùi Kim Kiều làm giám đốc đã và đang trở thành điểm tựa tin cậy của nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư tại Việt Nam.
Trải qua 11 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực thuế, kế toán và đã từng đảm nhận phó giám đốc điều hành ở một đại lý thuế của doanh nghiệp Nhật tại Việt Nam, bà Kiều đã có cơ hội học hỏi, thường xuyên phiên dịch, làm cầu nối giao thương cho các doanh nghiệp Nhật. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp thường gặp không ít khó khăn về ngôn ngữ, cũng như quy định pháp luật về chính sách thuế, kế toán luôn thay đổi, nên rất khó cập nhật. Để giải quyết những rào cản đó và thỏa niềm khát khao tự quản lý, vận hành doanh nghiệp theo đúng ý tưởng của mình, bà đã đứng tên thành lập Golden Span năm 2014. Các hoạt động chính của công ty hiện nay là tư vấn thuế, dịch vụ kế toán, hỗ trợ kiểm toán; cấp mới, gia hạn giấy chứng nhận đầu tư kinh doanh… Đến nay, khách hàng của Golden Span có đến 90% là doanh nghiệp Nhật, hầu hết đều qua nhịp cầu kết nối của bạn bè, sự giới thiệu từ những doanh nghiệp Nhật đã sử dụng dịch vụ khi đến Việt Nam. “Về chính sách phát triển, Golden Span tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ, tính chuyên nghiệp, tư vấn tận tình, giúp doanh nghiệp hạn chế rủi ro và tiết kiệm chi phí.
Công ty luôn hướng tới xây dựng văn hóa doanh nghiệp mà trọng tâm là đào tạo về tư duy, thái độ, hành vi ứng xử, tôn trọng khách hàng và đồng nghiệp; phục vụ khách hàng với tinh thần 4T+ (tận tâm, tận tình, tận lực, tận tuỵ và tận hưởng). Định hướng của Golden Span sẽ là công ty hàng đầu về cung cấp dịch vụ thuế, kế toán cho doanh nghiệp đa quốc tịch” – bà Kiều khẳng định.
Bên cạnh đó, bà Kiều cũng đang phối hợp với Trường Đại học Nguyễn Tất Thành mở rộng các khóa đào tạo cho sinh viên học ngành ngôn ngữ Nhật, kể cả những nhân viên làm trong các doanh nghiệp Nhật về văn hóa, kỹ năng giao tiếp. Hiện nay, các bạn trẻ thường thiếu kỹ năng mềm, khả năng ngoại ngữ, trong khi các doanh nghiệp Nhật ngày càng mở rộng đầu tư tại Việt Nam và đây chính là khoảng trống mà Golden Span muốn cùng các doanh nghiệp đào tạo trong nước lấp đầy.
Ngoài việc phát triển kinh doanh, nhiều năm qua Golden Span luôn tích cực tham gia chương trình hỗ trợ người nộp thuế quyết toán thuế TNCN do Cục Thuế TP HCM tổ chức; tham gia nhiều chương trình từ thiện do câu lạc bộ ĐLT TP HCM khởi xướng. Với thành quả này, Golden Span vinh dự được Cục Thuế TP HCM, câu lạc bộ ĐLT TP HCM tặng nhiều giấy khen. Đó cũng là động lực để tập thể Công ty phấn đấu phát triển đúng với tinh thần của hai câu thơ ngẫu hứng của bà Bùi Kim Kiều:
“Chung tay xây nhịp cầu vàng
Nối tôi, nối bạn vững vàng thành công!”
(Bài viết do PV Đức Mỹ thực hiện, đăng trên Tạp chí Thuế tháng 9/2019)
Cuối tháng 8/2019 vừa qua, Công ty TNHH TMDV Nhịp Cầu Vàng (Golden Span Co., Ltd) đã hỗ trợ, phối hợp cùng Hiệp Hội giáo dục kế toán Quốc gia (Nhật Bản) Zenkei tổ chức hội thảo thử nghiệm chương trình huấn luyện kỹ năng, văn hóa và hành vi ứng xử cho người lao động Việt Nam.
Chương trình dạy văn hóa và hành vi ứng xử cho người đi làm do Hiệp Hội giáo dục kế toán Quốc gia (Nhật Bản) Zenkei tổ chức thi hàng năm tại Nhật và 1 số nước khác.
Ngày 29/8, Zenkei đã tổ chức buổi dạy thử đầu tiên dành cho các giáo viên của các trường Đại Học, Cao Đẳng, Trung tâm ngoại ngữ, các công ty xuất khẩu lao động sang Nhật,… có dạy tiếng Nhật. Mục tiêu của chương trình dạy này nhằm để các học viên này có thêm kiến thức để đào tạo lại cho các học sinh, sinh viên, thực tập sinh,… hiểu rõ hơn về cách ứng xử khi đi làm tại các công ty.
Qua hội thảo lần này, Golden Span sẽ tiếp tục đồng hành và hỗ trợ cho Hiệp Hội giáo dục kế toán Quốc gia (Nhật Bản) Zenkei để tiếp tục tổ chức kỳ thi về văn hóa ứng xử lần đầu tại VN do chính Học viên Zenkei tổ chức và cấp bằng có giá trị quốc tế.
Thông tin thêm về Hiệp Hội giáo dục kế toán Quốc gia (Nhật Bản) Zenkei
Hiệp Hội giáo dục kế toán Quốc gia (Nhật Bản) Zenkei – là một tổ chức hoạt động với sự phê duyệt bởi Văn phòng chính phủ Nhật Bản. Hiệp Hội đang thực hiện 9 kỳ thi hàng năm dưới sự hậu thuẫn bởi Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ, và hàng đầu là kỳ thi ứng xử thường ngày của cán bộ công nhân viên.
Hiệp hội dự định thực hiện việc thử nghiệm “Kỳ thi cách cư xử trong kinh doanh/ làm việc tại Việt Nam từ tháng 6 năm 2020 tại Việt Nam. Để chuẩn bị cho kỳ thi đó, Hiệp Hội mở khóa dạy thử nghiệm lần đầu tiên do một giảng viên người Nhật thực hiện.
Chủ đề của khóa đào tạo này là về học tập khả năng kiếm tiền của bạn tại Nhật Bản, và bạn có thể học cách ứng xử trong công việc,…; Cụ thể, bằng cách học các điểm chính sau: Bạn có thể hiểu “tinh thần của người Nhật Bản” và “nền tảng văn hóa Nhật Bản”; Bằng cách hiểu những điều cơ bản về cách cư xử của người Nhật, khi làm việc tại các công ty Nhật Bản ở Nhật Bản và Việt Nam, bạn sẽ có sự khác biệt đáng kể so với người khác. Thông qua đánh giá của công ty. Và bạn cũng sẽ học được các kỹ năng sau: Tâm lý chung khi làm tại Công ty Nhật Bản; Các kỹ năng giao tiếp như : lời nói và thái độ tạo ấn tượng tốt khi tương tác với mọi người; Cách cư xử mà bạn nên biết khi làm việc…
Golden Span hân hạnh và vinh dự hỗ trợ đồng hành cùng Hiệp Hội giáo dục kế toán Quốc gia (Nhật Bản) Zenkei
Bộ Tài chính đề xuất gia hạn thuế thu nhập doanh nghiệp tạm nộp quý I thêm 3 tháng và lùi hạn nộp thuế VAT thêm 6 tháng.
Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý với dự thảo Nghị định gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng (VAT), thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2023.
Chính sách giãn hoãn thuế lần này theo Bộ Tài chính nhằm tiếp tục hỗ trợ người dân và doanh nghiệp có điều kiện phục hồi sản xuất kinh doanh. Năm 2022, Bộ cũng đã chủ động đề xuất chính sách này với mức gia hạn thuế, tiền thuế đất hơn 96.000 tỷ đồng.
Theo đó, Bộ đề xuất gia hạn 6 tháng đối với số thuế VAT từ tháng 1 đến tháng 5/2023 (nếu khai theo tháng) và quý I/2023 (nếu khai theo quý), gia hạn 5 tháng đối với số thuế VAT của tháng 6/2023 và quý II/2023.
Tổng số thuế giá trị gia tăng được gia hạn dự kiến khoảng 64.000-65.000 tỷ đồng, tuy nhiên doanh nghiệp vẫn phải nộp trước 31/12 nên không ảnh hưởng số thu ngân sách nhà nước.
Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, Bộ Tài chính đề xuất gia hạn 3 tháng với thuế thu nhập doanh nghiệp tạm nộp của quý I và quý II. Ước tính số thuế được gia hạn khoảng 42.800 – 43.600 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, dự thảo cũng đề xuất cho phép hộ cá nhân kinh doanh được chậm nộp thuế VAT và thuế thu nhập cá nhân, muộn nhất tới 30/12/2023.
Đối với tiền thuê đất, Bộ Tài chính đề nghị gia hạn thời hạn 6 tháng với 50% tiền thuê đất phải nộp năm nay của doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh cá nhân. Số tiền được gia hạn khoảng 3.500 tỷ đồng, phải được nộp vào ngân sách trước 30/11.
Theo Nghị quyết mới của Chính phủ, doanh nghiệp sẽ được hỗ trợ giảm chi phí, tăng khả năng tiếp cận vốn ưu đãi, nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước.
Ngày 21/4, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 58 về một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững đến 2025.
Trong bối cảnh sản xuất kinh doanh tiếp tục gặp nhiều khó khăn, Chính phủ cho biết trước mắt sẽ ưu tiên tháo gỡ các rào cản về pháp lý, giảm chi phí sản xuất, tăng khả năng tiếp cận vốn và khắc phục đứt gãy chuỗi cung ứng, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Theo đó, Bộ Tài chính được giao triển khai tiếp các giải pháp hỗ trợ về thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất và sớm trình Chính phủ điều chỉnh thuế xuất – nhập khẩu với nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. Bộ này cũng cần sớm đưa ra thông tư hướng dẫn cơ chế dùng chi thường xuyên từ ngân sách để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Các địa phương lên phương án giảm tiền nước, công bố và kiểm soát giá các loại vật liệu xây dựng. Bộ Xây dựng sẽ tìm cách tháo gỡ khó khăn liên quan đến quản lý chi phí, vật liệu xây dựng.
Bộ Công Thương cũng được yêu cầu đảm bảo và tự chủ nguồn cung xăng dầu trong nước, tính lại giá bán điện cho “cơ sở lưu trú du lịch” từ giá kinh doanh sang giá bán cho ngành sản xuất. Còn Ngân hàng Nhà nước cần chỉ đạo các tổ chức tín dụng dành vốn cho sản xuất, kinh doanh các lĩnh vực ưu tiên.
Về pháp lý, các dự án đầu tư đã được cấp phép, chưa hoặc đang triển khai sẽ được tháo gỡ vướng mắc nhằm khơi thông nguồn lực. Những dự án bất động sản đủ điều kiện triển khai sẽ được xử lý nhanh các thủ tục đầu tư, xây dựng để sớm đưa sản phẩm ra thị trường.
Chính phủ cũng đặt ưu tiên giảm thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp trong các lĩnh vực thuế, hải quan.
Với những khó khăn trong phòng cháy chữa cháy mà nhiều doanh nghiệp “kêu cứu” gần đây, Chính phủ giao Bộ Xây dựng, Bộ Công an rà soát, đơn giản hoá thủ tục, tìm cách giảm chi phí cho doanh nghiệp nhưng vẫn đảm bảo tuyệt đối an toàn.
Việc thanh tra doanh nghiệp cũng sẽ được giảm tối đa, trong đó giảm triệt để chống chéo thanh tra thuế, bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, Bộ Kế hoạch & Đầu tư nghiên cứu cơ chế hình thành lực lượng doanh nghiệp tư nhân dẫn dắt trong một số lĩnh vực, ngành kinh tế trọng điểm.
Theo mục tiêu được Chính phủ đưa ra cuối tháng 3, đến năm 2025 Việt Nam sẽ có khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp, 8.000-10.000 hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp. Khu vực này sẽ đóng góp 65-70% GDP cả nước, khoảng 30-35% việc làm và 99% kim ngạch xuất khẩu.
Theo các đại biểu, giảm thuế VAT 2% nên áp dụng cho tất cả mặt hàng để kích cầu, đồng thời kéo dài một năm thay vì 6 tháng nhằm phát huy hiệu quả.
Chính phủ đang trình Quốc hội giảm 2% thuế VAT với các hàng hóa, dịch vụ chịu thuế suất 10%, trừ một số lĩnh vực như ngân hàng, bất động sản, chứng khoán, viễn thông. Chính sách này được đưa ra trong bối cảnh Việt Nam đối mặt với tổng cầu giảm sâu.
Chia sẻ bên hành lang Quốc hội sáng 27/5, nhiều đại biểu cho rằng nên nới chính sách giảm thuế này với tất cả hàng hóa, dịch vụ trong bối cảnh khó khăn hiện nay.
“Cần giảm 2% thuế VAT với tất cả mặt hàng”, ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Trung tâm trọng tài Việt Nam nói. Theo ông, mọi cơ hội kinh doanh đều quý giá, trong lúc doanh nghiệp khó khăn, việc giảm thuế này sẽ kích cầu, giải quyết khó khăn thị trường – nút thắt lớn nhất với doanh nghiệp lúc này.
Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Nguyễn Văn Thân đồng tình việc mở rộng lĩnh vực, ngành nghề được thụ hưởng chính sách này để kích cầu tiêu dùng.
“Mở thêm lĩnh vực cần Chính phủ rà soát, đề xuất Quốc hội, nhưng theo tôi nên tập trung vào lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu vốn đang rất khó khăn hiện nay”, ông nói.
Giảm thuế VAT 2% sẽ tác động ngay tới người dân, kích thích khả năng tiêu dùng khi họ tiết kiệm được chi phí sinh hoạt, giúp kích cầu trong bối cảnh sức mua yếu. Doanh nghiệp sản xuất cũng được hưởng lợi gián tiếp khi tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ tăng lên và giảm chi phí mua nhiên liệu đầu vào vì các mặt hàng này chỉ chịu thuế 8%.
Ông Trần Hoàng Ngân cho rằng trong bối cảnh này, chính sách tài khóa cần mở rộng để giúp nền kinh tế thoát đà suy giảm, giải quyết bài toán an sinh xã hội, việc làm.
Theo ông, tất cả ngành nghề lĩnh vực đều kết nối với nhau. Thị trường tài chính là một thị trường quan trọng góp phần giải quyết bài toàn vốn cho doanh nghiệp. “Cái gì làm dễ, thuận lợi thì nên làm. Do đó, cần giảm thuế VAT cho đại trà chứ không nên khoanh vùng, thậm chí có thể kéo giảm thuế này sâu hơn”, ông Ngân nêu quan điểm.
Trước đó, theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính ngân sách, một số ý kiến tại cơ quan này đề nghị cân nhắc giảm thuế VAT với tất cả nhóm hàng hóa đang chịu mức thuế suất 10%, vì hiện các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh đều đang gặp khó khăn. Tuy nhiên, ông Hoàng Văn Cường, Phó hiệu trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân lại cho rằng, chỉ nên giảm thuế với những lĩnh vực, nhóm hàng sản xuất đang bị giảm sâu, mất thị trường, đơn hàng.
“Các lĩnh vực làm ăn tốt, sinh lời cao như ngân hàng, không nên giảm để đảm bảo chính sách công bằng”, ông Hoàng Văn Cường chia sẻ.
Trình Quốc hội lần này, Chính phủ cũng dự kiến thực hiện giảm thuế VAT về 8% trong 6 tháng, tức đến hết năm 2023. Nêu quan điểm, các đại biểu Quốc hội đều muốn kéo dài thời hạn áp dụng chính sách này một năm, sang năm 2024.
Theo ông Vũ Tiến Lộc, việc kéo dài này nhằm tránh chính sách bị giật cục. Tương tự, Phó hiệu trưởng Đại học Kinh tế quốc dân Hoàng Văn Cường cũng nhìn nhận, kéo dài giảm thuế sang 2024 để thời gian hỗ trợ đủ dài cho doanh nghiệp.
“Chúng ta kỳ vọng tới cuối năm 2023 kinh tế sẽ phục hồi nhưng liệu từ nay tới đó tình hình đã cải thiện chưa, hiện chưa có gì chắc chắn nên cần kéo dài chính sách này sang năm sau để phát huy hiệu quả”, ông nói.
Tuy nhiên quy định hiện nay, 31/12 là thời điểm phải quyết toán thuế, xây dựng kế hoạch ngân sách năm sau. Để việc kéo dài chính sách này không bị gián đoạn, ông Cường cho rằng nghị quyết của Quốc hội lần này nên có quy định mở. Tức là cho phép Chính phủ giảm thuế tới hết năm 2023, và nếu bối cảnh Chính phủ thấy cần tiếp tục kéo dài thì báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định, không phải chờ tới kỳ họp sau.
Dự kiến Quốc hội sẽ thảo luận tại nghị trường việc giảm thuế này vào ngày 1/6 và biểu quyết thông qua ở cuối kỳ họp.
Ngày 30/06/2023, Chính Phủ chính thức ban hành Nghị định 44/2023/NĐ-CP quy định về chính sách giảm thuế giá trị gia tăng theo Nghị quyết số 101/2023/QH15. Nghị định này quy định các ngành nghề được giảm thuế và trình tự thực hiện giảm thuế GTGT bắt đầu từ 01/07/2023. Hãy cùng Kế toán 1A tìm hiểu về Nghị định này nhé.
Các đối tượng, ngành nghề được giảm thuế GTGT
Theo quy định thì các hàng hóa không chịu thuế GTGT, chịu thuế GTGT 5% và các hàng hóa thuộc các ngành nghề sau vẫn áp dụng mức thuế GTGT cũ (không được giảm thuế GTGT).
Viễn thông, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, kim loại và sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản phẩm khai khoáng (không bao gồm việc khai thác than, kể cả khai thác sau đó qua sàng tuyển, phân loại theo quy trình khép kín mới bán ra), than cốc, dầu mỏ tinh chế, sản phẩm hoá chất.
Sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt như:
Hàng hóa: Thuốc lá, xì gà, rượu, bia, xe ôtô dưới 24 chỗ, xe mô tô xi lanh trên 125cm3, tàu bay, du thuyền, xăng, điều hòa công suất dưới 90.000 BTU, bài lá, hàng mã…
Dịch vụ: Vũ trường, massage, karaoke, casino, đặt cược, golf, xổ số.
Công nghệ thông tin theo pháp luật về công nghệ thông tin.
Chi tiết các ngành nghề, mã ngành và mã số HS được quy định cụ thể trong Phụ lục I, II, III đi kèm Nghị định 44/2023/NĐ-CP.
Việc giảm thuế GTGT được áp dụng thống nhất tại các khâu nhập khẩu, sản xuất, gia công, kinh doanh thương mại.
Đối với cơ sở kinh doanh tính thuế theo phương pháp khấu trừ
Cơ sở kinh doanh tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ được áp dụng mức thuế xuất giảm 8% với các mặt hàng, dịch vụ được giảm thuế.
Khi xuất hóa đơn
Với hóa đơn có 1 thuế suất, ghi “8%” tại dòng thuế suất thuế GTGT.
Với hóa đơn có nhiều thuế suất, ghi rõ thuế suất của từng loại hàng hóa, dịch vụ theo quy định.
Khi nộp Tờ khai thuế GTGT, nộp kèm Mẫu số 01, Phụ lục IV thuộc Nghị định này.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
____________________________________
GIẢM THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG THEO
NGHỊ QUYẾT SỐ 101/2023/QH15
(Kèm theo Tờ khai thuế GTGT Kỳ tính thuế: Tháng … năm … /Quý … năm … /Lần phát sinh ngày … tháng … năm …)
[01] Tên người nộp thuế: ……………………………………………………………………………………
[02] Mã số thuế: ……………………………………………………………………………………
[03] Tên đại lý thuế (nếu có): ……………………………………………………………………………………
[04] Mã số thuế: ……………………………………………………………………………………
STT
Tên hàng hóa, dịch vụ
Giá trị hàng hóa, dịch vụ chưa có thuế GTGT/ Doanh thu hàng hoá, dịch vụ chịu thuế
Thuế suất / Tỷ lệ tính thuế GTGT theo quy định
Thuế suất/ Tỷ lệ tính thuế GTGT sau giảm
Thuế GTGT được giảm
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)=(4)x80%
(6)=(3)x[(4)-(5)]
…
Tổng cộng
Tôi cam đoan những nội dung kê khai trên là đúng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những thông tin đã khai.
NHÂN VIÊN ĐẠI LÝ THUẾ
Họ và tên: ……
Chứng chỉ hành nghề số:……
…ngày….tháng….năm…..
NGƯỜI NỘP THUẾ hoặc ĐẠI DIỆN HỢP PHÁP CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ
(Ký, ghi rõ họ tên; chức vụ và đóng dấu (nếu có) hoặc ký điện tử)
Đối với cơ sở kinh doanh tính thuế theo phương pháp tỷ lệ % trên doanh thu
Cơ sở kinh doanh (bao gồm hộ, cá nhân kinh doanh) tính thuế GTGT theo phương pháp tỷ lệ % trên doanh thu được giảm 20% mức tỷ lệ dùng để tính thuế GTGT với các mặt hàng, dịch vụ được giảm thuế.
Khi xuất hóa đơn, tại cột “Thành tiền” ghi đầy đủ tiền hàng hóa, dịch vụ trước khi giảm, tại dòng “Cộng tiền hàng hóa, dịch vụ” ghi theo số đã giảm 20% mức tỷ lệ % trên doanh thu, đồng thời ghi chú: “đã giảm… (số tiền) tương ứng 20% mức tỷ lệ % để tính thuế giá trị gia tăng theo Nghị quyết số 101/2023/QH15”.
Khi nộp Tờ khai thuế GTGT, nộp kèm Mẫu số 01, Phụ lục IV thuộc Nghị định này.
Với những tính năng nổi trội, hệ thống hóa đơn điện tử mang lại nhiều lợi ích thiết thực, hiệu quả trên các phương diện quản lý thuế, tạo thuận lợi cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, tình trạng mua bán hóa đơn điện tử bất hợp pháp vẫn đang đặt ra những thách thức.
Theo số liệu trên hệ thống hóa đơn điện tử, tính đến cuối tháng 6/2023, Thành phố Hồ Chí Minh đã tiếp nhận hơn một tỷ số hóa đơn; trong đó số lượng hóa đơn điện tử có mã là hơn 380 triệu, số lượng hóa đơn điện tử không mã là hơn 616,3 triệu, số lượng hóa đơn điện tử có máy khởi tạo từ máy tính tiền là hơn 5,8 triệu số hóa đơn.
Phó Trưởng phòng Tuyên truyền – Hỗ trợ người nộp thuế (Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh) Hà Thái Hạnh đánh giá, sau hơn một năm áp dụng triển khai hóa đơn điện tử mang lại lợi ích thiết thực cho người nộp thuế như: nhanh chóng, tiện lợi cho người sử dụng, tiết kiệm trong việc phát hành hóa đơn và lưu trữ hồ sơ, không sợ thất lạc hóa đơn; dễ dàng theo dõi việc xuất hóa đơn và xử lý các hóa đơn sai sót; tăng cường bảo mật; doanh nghiệp giảm chi phí thủ tục hành chính thuế.
Tuy nhiên, một số đối tượng lợi dụng sự thông thoáng của cơ chế, chính sách về thành lập doanh nghiệp trực tuyến đã thành lập doanh nghiệp nhằm mua bán và sử dụng hóa đơn bất hợp pháp, từ đó chiếm đoạt tiền thuế của nhà nước.
Thủ đoạn chung của các hành vi mua bán hóa đơn không hợp pháp là sử dụng căn cước công dân của các cá nhân bị mất/đánh cắp, thuê người không có hiểu biết làm đại diện pháp luật… để thành lập doanh nghiệp, chuỗi doanh nghiệp hoặc mua lại doanh nghiệp đang hoạt động để đăng ký doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp trên thường không có tài sản cố định, thuê một địa điểm làm văn phòng cho nhiều công ty, chỉ treo bảng hiệu nhưng không hoạt động và sử dụng giấy tờ, chữ ký giả để thực hiện tất cả mọi giao dịch, bán hóa đơn cho các đối tượng là doanh nghiệp, tổ chức cần hợp thức chi phí đầu vào đối với hàng hóa nhập lậu, trôi nổi hoặc hàng hóa cần phải có hồ sơ chứng minh nguồn gốc như đất đá, cát sỏi, nông lâm, thủy hải sản, xăng dầu, thực phẩm… để chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng.
Theo bà Hà Thái Hạnh, từ khi triển khai hóa đơn điện tử, Bộ Tài chính đã chỉ đạo cơ quan thuế xây dựng và triển khai hệ thống ứng dụng hóa đơn điện tử, phát triển công cụ tự động rà soát những doanh nghiệp có hành vi sử dụng hóa đơn không hợp pháp. Qua đó, cơ quan thuế có thể phát hiện nhanh chóng, nhận diện chính xác những đối tượng có hành vi mua bán hóa đơn không hợp pháp.
Ngày 11/7, Tổng cục Thuế thông tin, qua công tác phối hợp với các cơ quan chức năng đã phát hiện 524 doanh nghiệp bán hóa đơn không hợp pháp, hóa đơn khống (là một trong các hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Khoản 7 Điều 6 Luật Quản lý thuế).
Trường hợp 524 doanh nghiệp bán hóa đơn này khác với trường hợp các doanh nghiệp bán hàng rồi bỏ địa chỉ kinh doanh đã đăng ký với cơ quan thuế vì các doanh nghiệp bán hóa đơn chủ yếu khai khống hóa đơn hàng hóa mua vào.
Tổng cục Thuế đã có văn bản khuyến cáo các doanh nghiệp có hóa đơn đầu vào của 524 doanh nghiệp để chủ động rà soát và loại trừ các hóa đơn không hợp pháp, không có hàng hóa kèm theo để điều chỉnh kê khai, hạch toán đúng nghĩa vụ thuế với Nhà nước.
Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh khuyến nghị: Cần có hệ thống phần mềm quản lý rủi ro có hỗ trợ báo cáo để rà soát rủi ro, kết hợp dữ liệu từ hệ thống hóa đơn điện tử với hệ thống TMS (hệ thống quản lý thuế tích hợp) để rà soát tự động danh sách người nộp thuế có rủi ro… Ngành cũng cần sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trên nền dữ liệu lớn (Big Data) để hỗ trợ, phục vụ người nộp thuế lập, nộp tờ khai thuế giá trị gia tăng tự động.
Tổng cục Thuế phối hợp Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành các giải pháp kiểm soát và hạn chế đối với các doanh nghiệp vi phạm, thực hiện các hành vi trục lợi, ảnh hưởng không tốt đến môi trường kinh doanh; bổ sung quy định xác thực thông tin mã định danh cá nhân của các cá nhân tham gia thành lập doanh nghiệp nhằm hạn chế việc đánh cắp thông tin cá nhân để thành lập doanh nghiệp.
Ông Nguyễn Tiến Dũng, Phó Cục trưởng Thuế Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: “Tới đây, cần xác thực căn cước công dân trước khi thành lập doanh nghiệp để bảo đảm chủ doanh nghiệp đó đích thực là người thành lập doanh nghiệp nhằm tránh gian lận thuế”.
Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh quyết liệt rà soát và xử lý vi phạm đối với các cơ sở kinh doanh không lập hóa đơn kịp thời cho người mua khi cung cấp hàng hóa, dịch vụ; đẩy mạnh công tác phối hợp với các sở, ban, ngành trên địa bàn để kiểm tra đột xuất các cơ sở kinh doanh; tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng, xử lý nghiêm các hành vi rao bán hóa đơn bất hợp pháp trên mạng xã hội.
Cục Thuế thành phố tăng cường kiểm tra, giám sát đội ngũ công chức trong thực thi công vụ, nhất là đối với trường hợp thường xuyên tiếp xúc với người nộp thuế, tránh để xảy ra tình trạng công chức thuế nhũng nhiễu, gây khó khăn cho người nộp thuế hoặc làm ngơ, tiếp tay, tham gia các hoạt động mua bán, gian lận về hóa đơn.
Sửa Nghị định số 123/2020/NĐ-CP phải trên nguyên tắc tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế chấp hành tốt chính sách pháp luật. Đó là yêu cầu chỉ đạo của Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Mai Xuân Thành tại cuộc họp bàn về việc tiếp tục hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 123/2020/NĐ-CP về hóa đơn, chứng từ vừa được Tổng cục Thuế tổ chức sáng 26/7.
Cuộc họp có sự tham dự của tập thể Lãnh đạo Tổng cục Thuế; đại diện Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các đơn vị chuyên môn thuộc Tổng cục Thuế.
Phát biểu tại cuộc họp, Quyền Tổng cục trưởng Mai Xuân Thành cho biết, thực hiện chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật năm 2023 Tổng cục Thuế được giao nhiệm vụ báo cáo cấp có thẩm quyền xây dựng Nghị định của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 123/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về hóa đơn, chứng từ (Nghị định số 123).
Theo Quyền Tổng cục trưởng Mai Xuân Thành, với việc chủ động ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý thuế, việc ngành Thuế triển khai hệ thống hóa đơn điện tử trở thành xu hướng tất yếu trong thời đại công nghệ 4.0. Tuy nhiên, sau thời gian triển khai trong thực tiễn đã có những nội dung mới cần được sửa đổi, bổ sung Nghị định số 123 cho phù hợp.
Trình bày nội dung dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 123, Vụ trưởng Vụ Chính sách Lưu Đức Huy cho biết, thực hiện nhiệm vụ được giao, ngày 21/3/2023, Tổng cục Thuế đã có Phiếu lấy ý kiến số 1292/TCT-CS lấy ý kiến các đơn vị thuộc Bộ Tài chính về dự thảo Nghị định. Đồng thời, trong các tháng 3-4/2023, Tổng cục Thuế đã triển khai khảo sát thực tế tại các địa phương (gồm: Cần Thơ, Hải Dương, TP Hà Nội, Bình Định) để trao đổi, lấy ý kiến về các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung tại dự thảo Nghị định và tổng hợp vướng mắc, khó khăn của các địa phương về triển khai hóa đơn điện tử.
Để thống nhất nội dung sửa đổi, bổ sung, ngày 24/7/2023, Bộ Tài chính đã tổ chức cuộc họp về dự thảo Nghị định. Tại cuộc họp, Lãnh đạo Bộ đã giao Tổng cục Thuế tiếp tục rà soát và hoàn thiện dự thảo Nghị định trước khi xin ý kiến bộ, ngành, địa phương.
Các đại biểu phát biểu ý kiến tại cuộc họp.
Tham gia ý kiến góp ý đối với dự thảo Nghị định, tập thể Lãnh đạo Tổng cục và đại diện các đơn vị dự họp thống nhất về sự cần thiết phải ban hành Nghị định của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 123 của Chính phủ quy định về hóa đơn, chứng từ. Đồng thời, tại cuộc họp, đại diện các Cục Thuế và đơn vị chuyên môn đề nghị cần tập trung vào nêu các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Nghị định số 123 từ đó đưa ra các ý kiến cụ thể đối với các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung các quy định tại dự thảo Nghị định.
Kết luận cuộc họp, Quyền Tổng cục trưởng Mai Xuân Thành cảm ơn ý kiến góp ý thẳng thắn, trách nhiệm của đại diện các đơn vị và yêu cầu trên cơ sở các ý kiến góp ý, Vụ Chính sách có trách nhiệm tiếp thu, nghiên cứu để hoàn thiện dự thảo Nghị định trình Tổng cục báo cáo Bộ Tài chính để triển khai xin ý kiến các bộ, ngành, địa phương.
Quyền Tổng cục trưởng Mai Xuân Thành yêu cầu, dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định số 123 phải bảo đảm các yêu cầu. Cụ thể:
Một là, quy định hóa đơn phải bảo đảm tôn trọng thực tiễn kinh doanh.
Hai là, phân định rõ trách nhiệm của cơ quan thuế, doanh nghiệp, người nộp thuế và các tổ chức liên quan.
Ba là, đồng bộ về pháp luật đặc biệt là với pháp luật về kế toán.
Bốn là, bảo đảm tiếp tục ứng dụng, phát triển được hệ thống hóa đơn điện tử và các ứng dụng sẵn có.
Năm là, bảo đảm nguyên tắc cải cách thủ tục hành chính.
Quyền Tổng cục trưởng Mai Xuân Thành nhấn mạnh phải đặc biệt lưu ý công tác quản lý hóa đơn cần phải trên nguyên tắc tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế chấp hành tốt chính sách pháp luật, đồng thời bảo đảm quản lý chặt chẽ với trường hợp cố tình vi phạm.
Nghị định số 123 được đánh giá là có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc chuyển đổi phương thức quản lý, sử dụng hóa đơn điện tử và giúp tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp, cho xã hội.
Trong đó, việc sử dụng hóa đơn điện tử giúp doanh nghiệp giảm chi phí hơn so với sử dụng hóa đơn giấy (giảm chi phí giấy in, mực in, vận chuyển, lưu trữ hóa đơn, không gian lưu trữ hóa đơn,…); giúp doanh nghiệp giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính thuế. Khắc phục rủi ro làm mất, hỏng, cháy khi sử dụng hóa đơn giấy do hệ thống lưu trữ hóa đơn điện tử được sao lưu nên khả năng mất hoàn toàn dữ liệu hóa đơn là khó xảy ra.
Bên cạnh đó, việc sử dụng hóa đơn điện tử tạo sự yên tâm cho người mua hàng hóa, dịch vụ. Sau khi nhận hóa đơn điện tử, người mua hàng hóa, dịch vụ có thể kiểm tra ngay trên hệ thống của cơ quan thuế để biết chính xác thông tin của hóa đơn người bán khai báo với cơ quan thuế và thông tin người bán cung cấp cho người mua.
Việc thực hiện đúng các quy định về hóa đơn, chứng từ của các tổ chức cá nhân sẽ giúp tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân nộp thuế, từ đó giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thuận lợi. Giảm thủ tục hành chính lên quan tới hóa đơn; giảm chi phí liên quan tới việc gửi, bảo quản, lưu trữ hóa đơn và giảm rủi ro về việc mất hóa đơn.
Ngoài ra, việc sử dụng hóa đơn điện tử giúp cơ quan thuế xây dựng cơ sở dữ liệu về hóa đơn; góp phần ngăn chặn kịp thời hóa đơn của các doanh nghiệp bỏ trốn, mất tích; ngăn chặn tình trạng gian lận thuế, trốn thuế.
Theo quy định hiện hành, chế độ bảo hiểm xã hội được áp dụng cho cả lao động Việt Nam và lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Vậy mức đóng bảo hiểm xã hội cho người nước ngoài được quy định như thế nào?
Người nước ngoài nào phải tham gia bảo hiểm xã hội?
Căn cứ Điều 2 Nghị định 143/2018/NĐ-CP, người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam bắt buộc phải tham gia bảo hiểm xã hội nếu có đủ các điều kiện sau:
1 – Có giấy phép lao động/chứng chỉ hành nghề/giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp.
2 – Có hợp đồng lao động không thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 năm trở lên với người sử dụng lao động tại Việt Nam.
Lưu ý: Những người sau đây dù đáp ứng các điều kiện nói trên nhưng không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đó là:
– Lao động nước ngoài di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp.
– Lao động nước ngoài đã đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định:
Nam: Từ đủ 60 tuổi 03 tháng nếu nghỉ hưu trong năm 2021.
Nữ: Từ đủ 55 tuổi 04 tháng nếu nghỉ hưu trong năm 2021.
Mức đóng bảo hiểm xã hội cho người nước ngoài
Theo quy định tại Điều 12, Điều 13 Nghị định 143/2018/NĐ-CP và Nghị quyết 68/NQ-CP năm 2021, mức đóng bảo hiểm xã hội cho người nước ngoài được căn cứ trên tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội người đó tương ứng với các tỷ lệ sau:
Thời điểm đóng
Người sử dụng lao động
Người lao động
Quỹ ốm đau, thai sản
Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Quỹ hưu trí, tử tuất
Quỹ hưu trí, tử tuất
Từ 01/12/2018 đến 30/6/2021
3%
0,5% hoặc 0,3%
0%
0%
Từ 01/7/2021 đến 31/12/2021
3%
0% (*)
0%
0%
Từ 01/01/2022 đến 30/6/2022
3%
0% (*)
14%
8%
Từ 01/7/2022
3%
0,5% hoặc 0,3%
14%
8%
Trong đó:
– Để chỉ phải đóng 0,3% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, doanh nghiệp hoạt động lĩnh vực có nguy cơ cao về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải đề nghị được đóng vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp với mức thấp hơn và có quyết định chấp thuận của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (theo Nghị định 58/2020/NĐ-CP).
(*) Doanh nghiệp được áp dụng mức đóng 0% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ 01/7/2021 – 30/6/2022.
Mức đóng bảo hiểm xã hội cho người nước ngoài quy định thế nào? (Ảnh minh họa)
Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội
Căn cứ Điều 14 Nghị định 143/2018/NĐ-CP, tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội cho lao động nước ngoài được xác định như sau:
* Với lao động nước ngoài thông thường:
Tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội gồm mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định.
* Với lao động nước ngoài là người quản lý doanh nghiệp:
Tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội là tiền lương do doanh nghiệp người đó quản lý quyết định.
Lưu ý: Tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của người nước ngoài bị giới hạn như sau:
– Mức tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất = Mức lương tối thiểu vùng tại thời điểm đóng.
Trong đó, mức lương tối thiểu vùng hiện nay được quy định như sau:
Mức lương tối thiểu vùng
Áp dụng với doanh nghiệp thuộc:
4.420.000 đồng/tháng
Vùng I
3.920.000 đồng/tháng
Vùng II
3.430.000 đồng/tháng
Vùng III
3.070.000 đồng/tháng
Vùng IV
– Tiền lương tối đa đóng bảo hiểm xã hội = 20 x Mức lương cơ sở = 29,8 triệu đồng
(Hiện nay mức lương cơ sở áp dụng năm 2021 là 1,49 triệu đồng/tháng)
Quyền lợi cho người nước ngoài khi tham gia bảo hiểm xã hội
Khoản 1 Điều 5 Nghị định 143/2018/NĐ-CP quy định các chế độ của bảo hiểm xã hội bắt buộc áp dụng với lao động nước ngoài như sau:
Người lao động quy định tại khoản 1 Điều 2 của Nghị định này thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc sau đây: ốm đau; thai sản; bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu trí và tử tuất.
Như vậy, có thể thấy, người lao động nước ngoài cũng được quy định đầy đủ các chế độ bảo hiểm xã hội như lao động Việt Nam.
Tuy nhiên, tại năm 2021, người lao động nước ngoài mới chỉ được giải quyết chế độ ốm đau; thai sản; bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp do doanh nghiệp mới chỉ đóng bảo hiểm cho 03 quỹ này. Còn chế độ hưu trí và tử tuất sẽ được áp dụng từ năm 2022.
Khi đáp ứng được các điều kiện luật định, lao động nước ngoài sẽ được quỹ bảo hiểm xã hội giải quyết chế độ tương ứng.
*Nguồn: Tác giảBình Thảo – Theo Báo Luật Việt Nam.